TỔNG QUAN ĐIỆN SINH LÝ TIM
- Sự phân bố các ion bên trong và ngoài màng tế bào
Hình 1:
Phân bố các ion ngoại bào và nội bào
Hình 2:
Cân bằng phân bố ion được duy trì bằng các bơm ion
Sự chênh lệch điện thế do
phân bố các ion hình thành nên điện thế
màng lúc nghỉ có giá trị -(60-80)mV,
ở tế bào cơ tim, điện thế này có giá trị -90mV.
- Điện
sinh lý cơ tim và hệ thống dẫn truyền
- Cơ tim
và Hệ thống dẫn truyền
-
Cơ tim:
Cơ tim có cấu tạo đặc biệt gồm
những thớ cơ đan chằng chịt với nhau mà chức năng của chúng là co bóp khi được
kích thích. Bên cạnh các sợi co bóp, còn có các sợi kém biệt hóa với nhiệm vụ
tạo ra và dẫn truyền xung động đến các sợi cơ của tim.
Hình 3: Hệ
thống dẫn truyền của tim
-
Hệ thống dẫn truyền tim
- Nút xoang: Được Keith và Flack tìm ra năm 1907, có hình
dấu phẩy, dài từ 10 - 35 mm và rộng từ 2 - 5 mm, nằm ở vùng trên nhĩ phải
giữa chỗ đổ vào của tĩnh mạch chủ trên và tiểu nhĩ phải. Các tế bào chính
của nút xoang được gọi là tế bào P có tính tự động cao nhất nên là chủ
nhịp chính của tim.
- Đường liên nút: gồm các tế bào biệt hóa chủ yếu là có khả năng
dẫn truyền xung động, nhưng cũng có một số tế bào có khả năng tự động
phát xung. Các đường này nối từ nút xoang đến nút nhĩ thất (Tawara) gồm
đường trước có một nhánh đi sang nhĩ trái (Bachman), đường giữa (bó
Wenckebach) và đường sau (bó Thorel).
- Nút nhĩ thất: Được Tawara tìm ra từ năm 1906, có hình bầu
dục, mặt phải lõm, mặt trái lồi, dài 5 - 7 mm, rộng 2 - 5 mm, dầy 1,5 - 2
mm, nằm ở mặt phải phần dưới vách liên nhĩ giữa lá vách van ba lá và
xoang vành. Nút nhĩ thất gồm nhiều tế bào biệt hóa đan với nhau chằng
chịt làm cho xung động qua đây bị chậm lại và dễ bị blốc. Nút nhĩ thất
chủ yếu làm nhiệm vụ dẫn truyền và chỉ có ít tế bào tự động.
- Bó His: Được His mô tả từ năm 1893, rộng 1 - 3 mm, nối
tiếp với nút nhĩ thất, có đường đi trong vách liên thất ngay dưới mặt
phải của vách dài khoảng 20 mm, bó His chia 2 nhánh phải và trái. Cấu tạo
bó His gồm các sợi dẫn truyền nhanh đi song song và có tế bào có tính tự
động cao. Vì bó His và nút nhĩ thất nối tiếp với nhau không có ranh giới
rõ rệt, rất khó phân biệt về mặt tổ chức học nên được gọi chung là bộ nối nhĩ thất.
-
Các
nhánh và mạng lưới Purkinje: Bó His chia ra 2 nhánh: nhánh
phải và nhánh trái, nhánh phải nhỏ và mảnh hơn, nhánh trái lớn chia
ra 2 nhánh nhỏ là nhánh trước trên trái và sau dưới trái. Nhánh phải và trái chia
nhỏ và đan vào nhau như một lưới bọc hai tâm thất. Mạng này đi ngay dưới màng
trong tâm thất và đi sâu vài milimet vào bề dầy của lớp cơ. Hai nhánh bó His và
mạng Purkinje rất giầu các tế bào có tính tự động cao có thể tạo nên các chủ
nhịp tâm thất.
-
Các
sợi Kent : Sợi tiếp nối giữa nhĩ và thất.
-
Các
sợi Mahaim: Các sợi đi từ nút nhĩ thất tới cơ thất,
từ bó His tới cơ thất, từ nhánh trái tới cơ thất.
*Đặc tính điện sinh lí học cơ tim và hệ thống dẫn
truyền tim xem SINH LÝ TUẦN HOÀN PHẦN TIM
Hình 4:
Hoạt động điện của cơ tim
-
Khi tế bào nghỉ: Do sự
chênh lệch nồng độ Na+, K+, Ca++,…
+
TB cơ tim ở trạng thái phân cực: mặt ngoài (+), mặt trong (-). (Hình A)
+
Điện thế qua màng (điện thế nghỉ) = -90mV
-
Khi tế bào hoạt động:
Tác
nhân kích thích màng TB -> các ion vận chuyển qua màng TB -> thay đổi
điện thế mặt trong và mặt ngoài màng TB
ð
Đường cong điện
thế hoạt động
- Đường
cong điện thế hoạt động
Hình 5:
Các phase của đường cong điện thế hoạt động
-
Phase 0: Khử cực nhanh
+
Na+: di chuyển ào ạt từ ngoài TB vào trong TB
+
Điện thế qua màng -90mV -> +20-+30mV
-
Phase 1: Tái cực nhanh sớm
+
Na+: giảm
+
K+: di chuyển ra ngoài màng
+
Điện thế qua màng hạ xuống gần mức 0
-
Phase 2: Tái cực chậm (cao nguyên tái cực)
+
Ca++ chậm đi vào TB
+
Na+ chậm vào TB
+
K+ đi ra
+
Điện thế qua màng thay đổi không đáng kể
-
Phase 3: Tái cực nhanh muộn
+
K+ đi ra tăng lên
+
Điện thế qua màng hạ nhanh xuống mức ban đầu: -90mV
-
Phage 4: Lặp lại hằng định nội môi
+
ATPase
1. Đẩy Na+ ra TB, bơm K+ vào TB
2. Đẩy Ca++ ra TB, bơm Na+ vào TB
+
Điện thế qua màng ổn định ở mức -90mV
ð
Ở sợi cơ co bóp, điện thế tối đa trong màng được duy trì, phase 4 sẽ kéo dài cho đến
khi có một kích thích từ ngoài đến làm hạ điện thế tới ngưỡng rồi khởi động
điện thế hoạt động với các giai đoạn như đã mô tả ở trên.
ð
Ở tế bào kém biệt hóa của hệ thống dẫn truyền thì hoàn toàn khác. Trong
trạng thái nghỉ, tế bào tự khử cực:
+ Ion Na+ xâm nhập dần dần vào trong tế bào làm hạ dần điện
thế trong màng, đó là sự khử cực chậm
tâm trương, một đặc trưng của tế bào tự động.
+ Khi điện thế trong màng hạ tới ngưỡng sẽ khởi động một điện thế hoạt
động. Tần số tạo ra những điện thế hoạt động phụ thuộc vào tốc độ khử cực chậm
tâm trương ở phase 4.
+ Bình thường, tế bào tự động của nút xoang có tần số tự khử cực lớn
nhất vì vậy điện thế trong màng của các nơi khác chưa xuống đến ngưỡng để tạo
ra một điện thế hoạt động thì xung động từ nút xoang đã dẫn tới xóa những xung
động đang hình thành từ các nơi đó và do vậy nó chỉ huy nhịp đập của tim.
Hình 6: Sự
di chuyển của các ion hình thành nên điện thế hoạt động của tế bào cơ tim
Hình 7:
Điện thế hoạt động ở các vị trí khác nhau trong tim
Hình 8:
Điện thế hoạt động của nút xoang và cơ thất
- Điện
sinh lý các tế bào sợi co bóp
-
Theo bề dày của cơ tim
các tế bào được chia thành 2 lớp gồm: thượng tâm mạc, lớp tế bào M và lớp nội
mạc.
-
Theo quan điểm truyền
thống: nội mạc khử cực trước, tái cực sau. Ngoại mạc khử cực sau, tái cực
trước.
-
Quan niệm mới:
+ Khử cực: nội mạc – tế bào M – ngoại mạc
+ Tái cực: ngoại mạc – nội mạc – tế bào M
Hình 9:
ĐIện sinh lý các lớp thành tim
bài viết hữu ích .à ,mà mình học Kỹ thuật y sinh đấy .bạn cũng học nghành này à?
Trả lờiXóa