Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

[Nội Tiêu Hóa] - Hội chứng gan thận - Chẩn đoán hình ảnh, thủ thuật, tiền sử


CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH
-          Siêu âm bụng tổng quát: Đây là một thăm dò không xâm nhập giúp loại trừ tình trạng thận ứ nước và các bệnh tại thận đặc trưng bởi thận nhỏ cả 2 bên. Khi phối hợp với Doppler có thể cung cấp những thông tin giá trị về dòng chảy của mạch thận.
-          Siêu âm tim: Thăm dò này có thể hữu ích để đánh giá tiền gánh, áp lực đổ đầy thất và hoạt động của tim nhằm đáp ứng với sự thay thế thế dịch.


THỦ THUẬT
1. Chọc dò: viêm phúc mạc nguyên phát do vi khuẩn  có thể cùng tồn tại với tổn thương chức năng thận khả hồi, chọc dò là một phương tiện chẩn đoán được đề nghị mạnh mẽ ở tất cả bệnh nhân. Vai trò điều trị của chọc dịch/ chọc dịch thể tích lớn (tháo báng) trong hội chứng gan thận vẫn còn gây khá nhiều tranh cãi trong các trường hợp không có báng nặng. Lo ngại ở đây là tiếp tục giảm thể tích có thể làm trầm trọng thêm rối loạn chức năng thận, do third-spacing (sự mất dịch ngoại bào từ lòng mạch sàng các ngăn khác của cơ thể) ở bệnh nhân với một rối loạn nền tuần hoàn hệ thống đã biết.  Nếu tiến hành chọc dịch thể thích lớn (tháo báng) ở những bệnh nhân này thì sử dụng albumin thay thế là cần thiết. Với mỗi Lít dịch tháo bàng cần được cung cấp bù vào 10g albumin, đến tối đa là 50g.

2. Thông bàng quang: thông bàng quang có thể hữu ích để giải quyết tình trạng bí tiểu – một nguyên nhân tiềm tàng gây nên suy thận cấp ở những bệnh nhân này. Tuy nhiên, lưu ống thông dài ngày không được khuyến khích do nguy cơ nhiễm trùng đường tiết niệu, trừ khi bệnh nhân trong tình trạng tiểu không tự chủ và có nguy cơ loét da hoặc trừ khi việc ghi nhận chính xác lượng nước tiểu là bắt buộc.

3. Đặt catheter tĩnh mạch trung tâm, catheter Swan Ganz: đo áp lực tĩnh mạch trung tâm và mao mạch thùy phổi có thể hữu ích ở những bệnh nhân không đáp ứng với thử nghiệm tăng thể tích huyết tương thích hợp. Huyết động ở hội chứng gan thận bao gồm tăng cung lượng tim, giảm huyết áp trung bình (từ 60-80 mmHg), và giảm kháng trở mạch máu tuần hoàn hệ thống. Mặc dù đây là những đặc trưng của bệnh nhân xơ gan, chúng vẫn có thể hiện diện trong một số trường hợp khác như quá mẫn hay nhiễm trùng. 
Theo dõi huyết động xâm nhập, ngoài những nguy cơ biến chứng liên quan đến thủ thuật còn có những hạn chế trong đánh giá tình trạng thể tích ở bệnh nhân. Ví dụ, một nghiên cứu được tiến hành bởi Kumar chỉ ra rằng, ở những tình nguyện viên khỏe mạnh, cả giảm áp lực tĩnh mạch trung tâm hay áp lực động mạch phổi đều không hữu ích trong dự đoán tiền gánh tâm trương với sự tối ưu chức năng tim mạch.

TIỀN SỬ
TIền sử thận bình thường bởi vì hội chứng gan thận là một rối loạn chức năng.
 /.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét