NGUYÊN NHÂN
Những yếu tố nguy cơ dẫn đến HCGT đã được báo cáo dựa trên những nghiên cứu ở một số lượng lớn BN xơ gan có báng cho thấy phần lớn có liên quan đến chức năng thận và tuần hoàn. 3 yếu tố nguy cơ quan trọng và dễ nhận ra là: huyết áp (HA) động mạch trung bình thấp (<80mmHg), giảm nống độ Natri máu pha loãng, tái hấp thu Natri nước tiểu mạnh (Natri niệu < 5 mEq/L). Một điều lý thú là những BN bệnh gan tiến triển với điểm Child-Pugh cao hoặc thông số chức năng gan tiến triển xấu đi như albumin, bilirubin và tỷ prothrombin lại không nằm trong nhóm nguy cơ cao phát triển HCGT.
Ở một số BN, HCGT có thể tự phát, trong khi ở những người khác thường đi kèm với tình trạng nhiễm trùng (đặc biệt là viêm phúc mạc nguyên phát do vi khuẩn), viêm gan rượu cấp, hoặc chọc hút một lượng dịch lớn mà không bù albumin.
Viêm phúc mạc nguyên phát do vi khuẩn làm nặng thêm HCGT type 1 ở khoảng 20% BN dẫu cho đã được chẩn đoán kịp thời, đúng đắn hay tình trạng nhiễm trùng đã được điều trị, giải quyết.
Mặc dù suy thận xảy ra ở đến khoảng 10% BN xơ gan có xuất huyết tiêu hóa, điều này thường diễn ra trong bối cảnh shock giảm thể tích, cho thấy tình trạng suy thận này do hoại tử ống thận hơn là HCGT.
Sau đây là danh sách các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển HCGT ở những BN xơ gan không có azotemia (bệnh urea huyết). Tất cả số liệu được đánh giá sau ít nhất 5 ngày BN thực hiện chế độ ăn giảm muối và không sử dụng các thuốc lợi tiểu.
- Natri niệu thấp (<5 mEq/L)
- Natri huyết thanh thấp (giảm nồng độ natri máu pha loãng)
- Giảm bài tiết nước tự do sau khi uống nước
- Huyết áp động mạch trung bình thấp (<80mmHg)
- Tăng hoạt renin huyết tương
- Norepinephrine huyết tương tăng
- Độ thẩm thấu huyết tương thấp
- Độ thẩm thấu nước tiểu cao
- Kali huyết thanh cao
- Báng giai đoạn đầu
- Gan không lớn
- Giãn tĩnh mạch trướng thực quản
- Tình trạng thiếu dinh dưỡng
- Urea huyết thanh tăng vừa (>30 mg/dL)
- Creatinine huyết thanh tăng vừa (>1,5 mg/dL)
- Mức lọc cầu thận giảm vừa (<50 ml/phút)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét