DỊ
DẠNG HẬU MÔN TRỰC TRÀNG
ĐẠI CƯƠNG
Đây là dị tật bẩm sinh hay gặp nhất ở đường tiêu hóa. Cần được
phát hiện và điều trị sớm ngay từ khi trẻ mới sinh. Tỷ lệ tử vong ngày càng
giảm.
Từ xưa người ta đã biết đến dị tật hậu môn - trực tràng dưới một
tên thông dụng là "không có hậu môn”.
-
Thế kỷ VII: Paulus là
người đầu tiên đã áp dụng phẫu thuật khoan thăm dò từ tầng sinh môn. Cách làm
này tuy mù quáng nhưng đã được thịnh hành trong rất nhiều thế kỷ.
-
1710 Littré đưa ra phẫu
thuật làm hậu môn nhân tạo ở những trẻ khoan thăm dò không có kết quả.
-
Rhoads (1948) đã dùng
phương pháp mổ kết hợp đường bụng và đường tầng sinh môn.
-
1953 Stephens đã nêu lên
vai trò của cơ mu trực tràng và cần thiết phải bảo tồn cơ này trong phẫu thuật.
-
1970 hội nghị quốc tế
chuyên đề “Dị dạng hậu môn - trực tràng” được tổ chức tại Melbourne (Australia)
đã đưa ra một bảng phân loại và đã được áp dụng rộng rãi trên nhiều nước.
PHÔI THAI HỌC
Thời kỳ phôi thai ruột sau (trực tràng) và niệu nang (bàng quang)
thông nhau trong một khoang gọi là ổ nhớp, phía dưới được bịt kín bằng màng ổ
nhớp. Màng ổ nhớp tiêu đi khiến đường tiêu hóa – sinh dục – tiết niệu thông với
bên ngoài.
Khi vách tiết niệu – trực tràng phát triển cuống dưới thì phân
chia trực tràng ra khỏi đường tiết niệu – sinh dục.
Quá trình phân chia này nếu bất thường ở một giai đoạn nào đó sẽ
dẫn đến dị tật hậu môn trực tràng.
Do có chung nguồn gốc nên hậu môn trực tràng, cơ quan sinh dục
ngoài, đường tiết niệu dưới thường có dị tật chung.
Hình 1: Phôi thai
TƯƠNG QUAN SINH LÝ – GIẢI
PHẪU
Hệ thống cơ vòng bình thường được cấu tạo bởi 3 nhóm cơ:
-
Cơ tròn ngoài: Cơ vân, điều khiển theo ý muốn, nằm quanh rìa hậu môn, có vai trò
trong vấn đề đại tiện nhất là đối với
phân lỏng hoặc hơi.
-
Cơ tròn trong: Là sự dày lên của lớp cơ vòng thành trực tràng.
Đây là cơ trơn nên không chịu sự điều khiển theo ý muốn. Cơ trơn trong không hiện diện trong các dị dạng thể cao.
-
Cơ mu trực tràng: Cơ vân, là một phần của cơ nâng hậu môn. Cơ bám vào xương mu phía trước và bọc quanh trực
tràng và bám vào xương cụt ở phía sau. Cơ tạo thành sự gập góc giữa trục của
trực tràng và ống hậu môn. Cơ đóng vai trò quan trọng điều khiển vấn đề đại tiện và đều có hiện diện trong tất cả các thể của dị dạng hậu môn - trực tràng.
Hình 2: Hệ thống cơ vòng bình thường
PHÂN LOẠI
1.
Mốc giải phẫu
Các tác giả đều nhất trí chọn cơ
mu trực tràng làm mốc giải phẫu chính để phân biệt 3 thể dị dạng:
Nếu d < 2cm: Thể
thấp.
Nếu d > 2,5cm: Thể
cao.
Nếu 2 < d < 2,5cm: Thể trung gian.
Khoảng cách (d) thiếu chính xác vì phụ thuộc vào tư thế chụp phim
của bệnh nhi và thời gian dốc ngược đầu và thời gian khí đi từ dạ dày đến trực
tràng.
Để khắc phục người ta phải chụp phim từ 12-24 giờ sau sinh và thời gian ngược đầu từ 3-5 phút.
2.
Mốc X quang
1970 Stephens đã dùng đường
mu-cụt (P-C) (Pubococcygeal-line) để đánh giá các dị dạng thay vì
dùng vật cản quang. Đường P-C là đường nối từ đỉnh của xương cụt với phần giữa của xương mu.
Đường này trên thực tế sẽ trùng với mặt phẳng của cơ mu trực
tràng. Do đó nếu:
Túi bịt nằm trên
đường PC: Thể cao.
Túi bịt nằm ngang
đường PC: Thể trung gian.
Túi bịt nằm dưới
đường PC: Thể thấp.
Tuy nhiên có nhiều trường hợp xương cụt chưa cốt hóa nên
Creamin cải biến tư thế chụp ngược đầu bằng cách cho gập 2 chân để đùi thẳng
góc với bụng. Hai điểm cốt hóa của ụ ngồi sẽ trùng với đường PC của
Stephens tức là trùng với mặt phẳng của mu-trực tràng.
Hình 3: Xquang chúc ngược đầu
3.
Bảng phân loại giải phẫu-lâm sàng
a. Loại trên cơ nâng hậu môn (cao)
-
Bất sản hậu môn trực tràng:
+ Không có ống hậu môn
+ Túi bịt trực tràng đứng lại trên đường PC.
-
Bất sản trực tràng:
+ Ống hậu môn bình thường
+ Túi bịt trực tràng dừng lại trên đường PC.
Loại trên cơ nâng hậu môn thường kèm theo các đường rò vào bàng quang hay niệu đạo khoảng 70% ở bé trai và rò vào âm đạo ở túi cùng sau khoảng 90%
ở bé gái.
b. Loại trung gian
-
Bất sản hậu môn:
+ Không có ống hậu môn
+ Túi bịt trực tràng đã xuống sát đường PC.
Loại trung gian cũng có rò vào tiết niệu ở bé trai và âm đạo thấp
ở bé gái, tỷ lệ chiếm khoảng 10%.
-
Hẹp hậu môn trực tràng: Hậu môn và trực tràng bình thường nhưng đoạn
nối hậu môn trực tràng bít hẹp ngang đường PC.
c.
Loại
dưới cơ nâng hậu môn (thấp)
-
Hậu môn màng
Trực tràng và ống hậu môn đều bình thường nhưng lỗ hậu môn bị bít
kín bởi một lớp màng trắng mỏng, qua màng có thể thấy phân su bên dưới.
-
Hậu môn nắp
+
Thể nắp kín: Hậu môn được bít kín
bởi một nắp da dày, không có chỗ rò phân.
+
Thể nắp hở: Có các lỗ rò phân. Tùy
theo vị trí của lỗ rò ta có các loại dị dạng:
Dị
dạng hậu môn - trực tràng tầng sinh môn trước: Rò ở tầng sinh môn trước.
Dị
dạng hậu môn bìu: Lỗ rò nằm ở góc bìu
dái.
Dị
dạng hậu môn-âm hộ: Lỗ rò nằm ở âm hộ (môi
lớn, môi bé hoặc tiền
đình).
Lỗ hậu môn nhỏ hơn bình thường đôi lúc chỉ nhỏ như chân tăm xe
đạp.
d.
Loại hiếm gặp: Nữ còn ổ nhớp
Hình 4: Còn ổ nhớp
LẤM SÀNG
Cơ năng
-
Đa số biểu hiện hội
chứng tắc ruột sơ sinh
-
Một số ít vẫn ỉa phân su
(qua lỗ dò, hẹp hậu môn)
Toàn thân
Đẻ non, thiếu cân, mất nước, dị tật, phối hợp…
Thực thể
Chủ yếu khám vùng tầng sinh môn
-
Trường hợp không có lỗ
hậu môn:
+ Vết tích hậu môn: Lúm da sẫm màu nâu, vị trí
bình thường hoặc bất thường, khi trẻ khóc thì phông lên hoặc không, sờ vào mềm
hoặc chắc.
+ Cơ thắt hậu môn: kích thích gây đau chỗ vết
tích hậu môn, nếu có cơ thắt -> co rúm lại
+ Lỗ rò: vị trí? Có phân su ra không? Phân su
qua các lỗ tự nhiên: niệu đạo (nam), âm đạo (nữ)
-
Trường hợp có lỗ hậu
môn: thăm khám bằng sonde Nelaton 8 -12
+ Vào sâu bao nhiêu?
+ Có phân su ra không?
CHẨN ĐOÁN
Đơn giản dựa vào sự thăm khám có hệ thống vùng tầng sinh môn của tất cả các trẻ sơ sinh. Hai dấu hiệu
chính là:
-
Không thấy sự hiện diện
của lỗ hậu môn ở vị trí bình thường.
-
Hoặc đặt một sonde không
vào được trực tràng.
Ngoài ra cần phải:
-
Xác định các lỗ rò phân
ở tầng sinh môn trước, góc bìu dái hoặc ở âm hộ trong trường hợp thể thấp.
-
Quan sát nước tiểu: Để
phát hiện dấu hiệu có phân su + hơi trong nước tiểu ở trường hợp có rò
trực tràng-tiết niệu ở bé trai và phân ra âm đạo ở bé gái.
-
Khám toàn diện: Để phát
hiện các dị tật khác kèm theo (lồng ngực, tim mạch, cột sống...)
CHẨN ĐOÁN THỂ GIẢI PHẪU
Dựa vào hình ảnh X quang tư thế ngược đầu.
Có thể chụp đường rò có cản quang để xác định túi bịt trực
tràng hoặc chọc dò vùng tầng sinh môn dưới sự hướng dẫn của siêu âm để bơm
thuốc cản quang vào túi bịt trực tràng. Phương pháp này cho phép xác định chính
xác giới hạn của túi bịt trực tràng so với tầng sinh môn.
Thời gian gần đây siêu âm có một vài trò rất quan trọng trong chẩn
đoán xác định thể dị dạng (dựa vào đo khoảng cách từ tầng sinh môn đến túi bịt
trực tràng), xác định các đường rò phân qua bàng quang, niệu đạo ở bé trai và
âm đạo ở bé gái, xác định các dị tật kết hợp.
Ngoài ra để khắc phục các nhược điểm do phương pháp chụp ngược
dòng (invertogram) người ta có thể cho trẻ nằm sấp và kê mông lên thật cao
(tư thế chổng mông). Với tư thế này trẻ có thể nằm một thời
gian rất lâu để chờ hơi xuống đến đại tràng và đồng thời do
bụng vùng hạ vị bị ép nên dồn hơi lên túi bịt rất rõ ràng.
DIỄN BIẾN VÀ BIẾN CHỨNG
Nếu không điều trị kịp thới
+ Nôn, trào ngược đường hô hấp
+ Chết đột ngột
+ Nhiễm trùng đường hô hấp
+ Tắc ruột vỡ ruột
+ Giãn đại tràng thứ phát
ĐIỀU TRỊ
Mục đích:
-
Cứu sống bệnh nhân
-
Tạo hậu môn ở vị trí
bình thường
-
Đảm bảo chức năng đại
tiện
Mỗi loại dị dạng đều có một chỉ định điều trị tương ứng.
Chỉ định
-
Hậu môn bịt kín, không
có lỗ rò: mổ cấp cứu
-
Hậu môn bịt kín, có lỗ
ròi: có thể trì hoãn một thời gian
-
Hẹp HM hay TT : nong,
nếu không có kết quả thì mổ
1. Dị
dạng dưới cơ nâng hậu môn (thấp)
-
Hậu
môn màng: Cắt bỏ màng.
-
Hậu
môn nắp kín:
+ Cắt bỏ nắp
+ Tạo hình lỗ hậu môn mới.
+ Đường mổ tầng sinh môn, bộc lộ túi bịt
trực tràng, đưa xuống tầng sinh môn đính niêm mạc và da theo kiểu loa kèn.
-
Hậu
môn nắp hở (Hậu môn âm hộ, hậu môn
tầng sinh môn trước, hậu môn bìu).
+ Phẫu thuật "cut back” cắt bỏ đường rò vào tạo hình lỗ hậu môn
mới. Sau khi xẻ đường rò để hở hoàn toàn vết mổ. Thời gian sau tầng sinh môn
đứa trẻ sẽ tự đầy lên trở lại.
-
Hẹp
hậu môn: Chỉ cần nong hậu môn
bằng tay hoặc bằng dụng cụ (Bougie de Hégar).
2. Dị
dạng thể cao (trên cơ nâng)
Áp dụng phẫu thuật 3 thì:
Thì 1: Làm hậu môn nhân tạo.
Thường làm cấp cứu để giải quyết tình trạng tắc ruột và tình tạng
ứ đọng phân. Ngoài ra hậu môn nhân tạo còn làm giảm các triệu chứng nhiễm trùng
trong trường hợp có rò giữa trực tràng và bàng quang, âm đạo.
Thì 2: Hạ bóng trực tràng, thắt các đường rò
phân, tạo hình lỗ hậu môn mới.
Các phương pháp thường được áp dụng thì 2 là:
Phẫu thuật Rhoads: Hạ bóng trực tràng bằng đường bụng kết hợp
đường tầng sinh môn.
Phẫu thuật Kiesewetter: Hạ bóng trực tràng qua ống thành cơ trực
tràng bằng đường bụng kết hợp đường cùng và đường tầng sinh môn.
Phẫu thuật Péna: Hạ bóng trực tràng bằng đường cùng, áp dụng ở
các thể dị dạng trung gian. Hiện nay, đây là phương pháp phẫu thuật được
hầu hết phẫu thuật viên nhi trên thế giới sử dụng.
Thì 3: Đóng hậu môn nhân tạo.
Thông thường thì 1 làm ở
tuổi sơ sinh. Thì 2 khi trẻ > 1 tuổi, cân nặng > 10kg. Thì 3 sau thì 2 từ
3-6 tháng.
3. Dị
dạng thể trung gian
Ở thể hẹp hậu môn trực tràng: Nong bằng tay hoặc dụng cụ.
Ở trẻ có rò ra da ở tầng sinh môn có thể áp dụng phẫu thuật cut
back.
Các thể còn lại đều áp dụng phẫu thuật 3 thì như trong thể cao.
Nhưng trong thì 2 của phẫu thuật có thể áp dụng phương pháp Péna hạ bóng trực
tràng bằng đường cùng và tầng sinh môn không cần phải mổ bụng.
Thời gian gần đây với sự tiến bộ trong phẫu thuật cũng như trong
gây mê hồi sức, các phẫu thuật viên nhi đã có thể giảm lứa tuổi mổ triệt để sớm
hơn (6 tháng) và áp dụng phẫu thuật 2 thì. Ngoài ra ở một số bệnh viện phẫu
thuật nội soi cũng đã được áp dụng kết hợp để điều trị các thể dị dạng ở cao.
Đặc biệt: teo trực tràng: giải phóng 2 đầu trực tràng nối
tận – tận
THEO DÕI – ĐÁNH GIÁ SAU
MỔ
Sau phẫu thuật tạo hình hậu môn trực tràng, ngoài các biến chứng
thông thường như các phẫu thuật khác ở đường tiêu hoá như nhiễm trùng, chảy
máu, dính ruột... thì có 2 biến chứng rất đặc thù của bệnh cần phải được đánh
giá lâu dài là:
Hẹp hậu môn
Do hậu môn sau khi tạo hình không được nong thường xuyên nên hình
thành các lớp xơ làm hẹp hậu môn thậm chí có nhiều trường hợp bít lại
hoàn toàn.
Để đề phòng biến chứng này cần tạo hình hậu môn có thừa một ít
niêm mạc lộn ra ngoài để tránh dính 2 mép hậu môn về sau và đồng thời phải có
kế hoạch nong hậu môn định kỳ và đều đặn sau mổ (thì 2 và thì 3). Tốt
nhất là huấn luyện cho bà mẹ tự nong cho con của mình bằng tay (có đeo găng).
Són phân
Do tổn thương hệ cơ vòng của hậu môn.
Nếu ở mức độ nhẹ có thể điều trị nội khoa (chế độ ăn, sinh hoạt,
tập luyện phản xạ có điều kiện).
Nếu mức độ nặng ảnh hưởng sinh hoạt bệnh nhân cần đặt vấn đề phẫu
thuật tạo hình lại hệ cơ vòng hậu môn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét