UNG
THƯ THỰC QUẢN
I.
ĐẠI
CƯƠNG
Ung thư thực quản là loại ung thư hay
gặp và nằm trong danh sách
10 loại ung thư hàng đầu ở Việt Nam .
Bệnh tiến triển ban đầu rất thầm
lặng nên đây thuộc loại Ung thư có diễn biến xấu nhất trong các U của nội
tạng do nó thường đã ở giai đoạn tiến triển rộng khi phát hiện được trên lâm
sàng.
Tần suất mắc bệnh thay đổi tùy theo vùng địa dư, có thể do yếu tố môi trường và dinh dưỡng. Hiện nay, mặc dù
có nhiều tiến bộ trong
ngoại khoa và các phương
pháp điều trị phốii hợp nhưng tỷ lệ bệnh nhân sống sau 5 năm chỉ dưới 20%.
1. Các yếu tố thuận lợi
Bệnh căn của Ung
thư thực quản vẫn còn nhiều điểm chưa được biết rõ, nhưng có nhiều yếu tố có
liên quan đến việc xuất hiện bệnh.
Nguy cơ ung thư thực quản gia
tăng theo tuổi. Thường gặp ở tuổi trên 40.
Ung thư thực quản gặp chủ yếu ở nam giới, tỷ lệ nam: nữ là 9:1.
Chế độ ăn và thói quen sinh hoạt: Rượu và thuốc lá được chứng minh có liên quan mật thiết đến
gia tăng tần suất ung thư thực quản, trong khi ở những người theo chế độ ăn nhiều
trái cây và rau, tần suất ung thư thực quản thấp rõ rệt.
Thực phẩm và nước
uống có nhiều Nitrit và Nitrat (là nguồn sinh ra Nitrosamin-chất gây Ung thư)
Chế độ ăn thiểu dưỡng, thiếu các chất như
vitamin C, vitamin A hay riboflavin có thể làm tăng tần suất mắc ung thư thực quản,
như các nghiên cứu ở Trung
Quốc hay Iran cho thấy.
Ăn và uống nhiều đồ nóng và các chất gây cọ sát niêm mạc
thực quản cũng làm tăng nguy cơ dẫn đến thung thư thực quản.
Các bệnh lý ở thực quản: Trào ngược dạ dày-thực quản, viêm thực quản mạn tính do
trào ngược, loét Barette thực quản, phình thực quản, sẹo thực quản do bỏng hóa
chất...đều có thể dẫn đến ung thư thực quản.
Vì vậy, ở những người có các yếu tố
thuận lợi hay mắc các bệnh lý trên, thầy thuốc cần theo dõi sát và tiến hành
nội soi kịp thời để phát
hiện ưng thư ở giai đoạn
sớm.
2. Sơ lược giải phẫu
Thực quản là một ống cơ bắt đầu từ
chỗ tiếp theo hầu, tương ứng với bờ
dưới của sụn nhẫn hay bờ dưới đốt sống cổ VII trên phim chụp cắt lớp, từ đó
thực quản đi qua trung thất, cơ hoành và tận cùng của tâm vị của dạ dày. Thực
quản dài khoảng 25cm, dẹt do các
thành áp sát vào nhau, khi
có khối thức ăn đang nuốt thì thực quản có hình ống. Thực quản dính chặt đầu
trên của nó với sụn nhẫn và đầu dưới cơ hoành.
Hình 1: Thực
quản
Cách phân chia thực quản
Về mặt phẫu thuật thực quản được
chia làm 3 đoạn:
·
1/3 trên: Bắt đầu từ miệng thực quản (cách cung răng trên 14-15cm) cho
tới bờ trên quai động mạch chủ (cách cung răng trên 25cm)
đoạn này chỉ dài chừng 10cm.
·
1/3 giữa: Bắt đầu từ bờ trên quai động mạch chủ cho tới bờ
dưới tĩnh mạch phổi
dưới (cách cung răng trên 33cm), đoạn này dài chừng 8cm liên quan tới các
mạch máu lớn của tim.
·
1/3 dưới: Bắt đầu từ bờ dưới tĩnh mạch phổi
cho tới tâm vị (cách cung răng trên
40cm), đoạn này dài chừng 7cm.
Hình 2: Phân
chia thực quản
3. Cấu tạo
Thực quản được cấu tạo bởi 3 lớp:
Trong cùng là lớp niêm mạc bao gồm những tế bào biểu mô đáy (ở phần lớn đoạn
trên thực quản) và biểu mô trụ
(ở đoạn cuối thực quản), kế
tiếp theo là lớp dưới niêm
mạc chứa những tế bào tuyến nhầy, ngoài cùng là lớp cơ, với những dải cơ dọc ở
ngoài và những sợi cơ vòng ở trong. 1/3
trên thực quản là cơ vân, còn 2/3 dưới là cơ trơn.
II.
GIẢI PHẪU BỆNH
1. Đại thể
Khối Ung thư thực quản có thể nằm ở
bất cứ đoạn nào của thực quản: đoạn cổ (nằm ngoài lồng ngực), đoạn trong lồng
ngực ( 1/3 trên, 1/3 giữa và 1/3 dưới) và đoạn Tâm vị. Trong đó thường gặp Ung
thư thực quản ở đoạn trong lồng ngực 1/3
giữa , 1/3 dưới và đoạn Tâm vị.
Các U ở đoạn trên và giữa thực quản trong lồng ngực nằm trong phần hẹp của trung thất nên dễ xâm nhiễm vào các tạng của trung thất như: khí-phế quản, quai động mạch chủ ,thần kinh quặt ngược, ống ngực...
Các U ở đoạn dưới thực quản và Tâm vị do là ở phần rộng của trung thất nên chậm có hiện tượng xâm nhiễm vào các cơ quan trong trung thất. Nếu có phát triển thì thường xâm nhiễm vào màng ngoài tim, cơ hoành, dạ dày…
U cũng thường lồi vào lòng thực quản hoặc xâm nhiễm làm hẹp lòng thực quản.
Cũng như ở mọi đoạn khác của đường
tiêu hóa, về mặt đại thể của ung thư thực quản có những thể sau:
-
Thể sùi: Một vùng niêm mạc thực quản dài
1-2cm, có khii 7-8cm sùi lên những nụ trông giống như hình hoa súp-lơ không
đều, cứng, trên bề mặt có những nụ sùi có những chỗ hoại tử, mủn nát, rớm máu, có khi tạo
thành những ổ loét.
-
Thể thâm nhiễm: Ung thư thể thâm nhiễm chủ yếu phát
triển ở lớp niêm mạc xâm lấn vào lớp dưới niêm mạc rồii vào lớp cơ, phát triển
theo hình vòng nhẫn, do đó
làm ống thực quản bị chít hẹp.
-
Thể loét: Ung thư thể loét là hay gặp nhất, kích thước có thể lớn nhỏ
khác nhau, có bờ rõ, chung quanh ổ loét thành thực quản bị nhiễm cứng. Có
loét chiếm hết chu vi của
lòng thực quản.
Ba hình thái trên ít gặp đơn độc mà
thường kết hợp với nhau để tạo thành các thể trung gian. Ngoài ra kết hợp với
khối u thường thấy giãn thực quản bên trên khối u kèm hiện tượng viêm nhiễm.
2. Vi thể
Phần lớn là ung thư biểu bì hay còn
gọi là ung thư biểu mô tế bào gai, chiếm 90%, thường là tế bào biệt hóa có sừng hoặc không có sừng.
Ung thư biểu mô dạng tuyến chỉ gặp
khoảng 5-10%, ở phần dưới
của thực quản và tâm vị. Loại ung thư này khó
phân biệt được là từ thực quản hay từ dạ dày
phát triển ra, hay gặp ở thực quản Barrett.
Sarcoma thực quản rất hiếm gặp, có
tỷ lệ khoảng 0,1-1,5% trong tất cả các khối u của thực quản. Loại này thường định vị ở
đoạn thực quản ngực hoặc cổ.
3. Di căn
Đường di căn của ung thư thực quản
là đường bạch mạch và đường máu.
Theo đường bạch mạch, ung thư thực quản di căn xuống vùng tâm vị, mạch vành phần bụng, di căn lên
trên vào dây thần kinh quặt ngược vào hố trên đòn và cổ, khối hạch giữa thanh
quản và khí quản. Theo đường máu, tổ chức ung thư di căn vào gan, xương và phổi.
III.
LÂM SÀNG
1. Triệu chứng cơ năng
Nuốt nghẹn
Lúc bệnh mới bắt đầu, tổ chức ung
thư còn khu trú, biểu hiện bởi những
rối loạn khi nuốt, nhất là
với thức ăn đặc. Nghẹn có khii tăng lên, có khi giảm xuống đôi chút nhưng bao giờ
cũng có, vì ngoài thương tổn thực thể do khối u, bệnh thường có kèm theo yếu tố viêm nhiễm, phù nề tại chỗ. Sau
khoảng 2 tháng, triệu chứng
nuốt nghẹn sẽ tăng lên dần
và kéo dài, mới đầu chỉ thấy
nuốt nghẹn với thức ăn đặc, về sau nghẹn cả với thức ăn lỏng như cháo, nước.
Nuốt nghẹn thường hiện diện muộn trong tiền sử bệnh vì
thực quản không có lớp thanh mạc nên cơ trơn giãn ra một cách dễ dàng. Kết quả là khi dấu hiệu nuốt nghẹn đã rõ để bệnh nhân đi khám bệnh thì có trên 60%
số trường hợp đã bị ung thư giai đoạn muộn.
Một vài trường hợp ung thư thực quản
không có triệu chứng nuốt nghẹn bởi vì
khối u tiên phát chỉ xâm lấn vào những cấu trúc lân cận mà không xâm lấn vào lòng thực quản. Khi khối u xâm lấn vào khí-phế quản
bệnh nhân có thể thay đổi
giọng nói và ho dữ dội.
Nôn
Thường thấy ở giai đoạn muộn, khi
khối u tăng kích thước làm chít hẹp lòng thực quản. Nôn xuất hiện khi biểu hiện
nuốt nghẹn đã rõ rệt. Nôn
có thể xảy ra trong bữa ăn ngay sau khi ăn. Chất nôn là thức ăn vừa mới ăn vào còn nguyên cả hạt cơm, hạt cháo không có lẫn
dịch vị. Có thể có vài tia máu nhỏ trong chất nôn.
Tiết nhiều nước bọt
Khi bệnh nhân nuốt nghẹn nhiều thì
nước bọt hầu như không xuống được
dạ dày. Vì nước bọt tiết
nhiều mà không nuốt được nên bệnh nhân luôn phải nhổ nước bọt.
Ngoài những triệu chứng trên, những
bệnh nhân ung thư thực quản đến muộn người ta cũng ghi nhận một số triệu chứng cơ năng khác
như: ho nhiều, cơn nấc, đau tức ngực, đau sau xương ức (thể hiện xâm lấn của
khối u vào vùng cột sống),
hơi thở có mùi hôi thối hoặc các triệu chứng của biến chứng như sặc, khàn
tiếng...
2. Triệu chứng thực thể
Khi bệnh nhân đến tương đối sớm thì
thăm khám thực thể thường không phát hiện gì. Nhưng khi đến muộn, lúc đã có di
căn thì có thể sờ thấy hạch thượng
đòn, hạch vùng trên rốn, gan lổn nhổn, di căn xương...
3. Triệu chứng toàn thân
Trong khi triệu chứng thực thể rất
nghèo nàn thì triệu chứng toàn thân lại rất rõ rệt: người bệnh sút cân nhanh chóng, trong vòng vài ba
tháng có thể sút tới 10-15kg cân nặng. Bệnh nhân hốc hác, mất nước, da khô và nhăn nheo trông rất dễ
nhận biết. Đôi khi có tràn
dịch màng phổi, nổi hạch
cổ, gan to, bụng báng, hội chứng Horner (đồng tử co nhỏ, sụp mi mắt và giảm
tiết mồ hôi). Lý do của gầy sút ngoài do ung thư còn do không ăn uống được.
IV.
CẬN LÂM SÀNG
1. X quang
Trên hình ảnh X quang chiếu hoặc
chụp, cần phải xác định rõ vị trí của thương tổn, mức độ phát triển của khối u theo chiều
dọc của thực quản, tình trạng của thực
quản trên chỗ có tổn thương, các tổ
chức chung quanh thực quản.
Chiếu sau khi cho uống baryt
thấy thành thực quản nham
nhở, những chỗ có ung thư
không có nhu động và cứng đờ.
Chụp thực quản có baryt ở các tư thế
thẳng, nghiêng, chếch lấy toàn bộ thực quản, ta có thể thấy những hình ảnh sau:
-
Một
hình khuyết có đường bờ nham nhở, ngoằn ngoèo, thấy trong ung thư thể sùi.
-
Lòng
thực quản ở một đoạn nào đó hẹp nhỏ lại, cứng gặp trong ung thư thể thâm nhiễm.
-
Một
ổ đọng thuốc hình tròn, hình bầu dục hay hình thấu kính tương ứng với ung thư
thể loét.
Các biểu hiện trên là biểu hiện của
các thương tổn lớn khi bệnh nhân đến trễ. Trong giai đoạn sớm của bệnh, khi
thương tổn còn nhỏ, với phương pháp chụp X quang thông thường không phát hiện
được, lúc đó cần phải dùng các phương pháp X quang khác.
Chụp đối quang kép: Cho thấy hình dạng các lớp niêm mạc bị thay đổi.
Đây là triệu chứng sớm nhất của ung
thư thực quản.
Quay phim X quang cho thấy một đoạn
thực quản khi co bóp không còn mềm mại bình thường.
Hình 3: X
quang thực quản, dạ dày bình thường
Hình 4: Chụp
thực quản cản quang: A. Cản quang thường; B. Đối quang kép
Hình 5 - 6:
Hình ảnh X quang ung thư thực quản
Tóm lại, X quang giúp chẩn đoán xác định bệnh, chẩn đoán vị trí ung thư và
chẩn đoán độ lớn của thương tổn. Bên cạnh chụp thực quản, người ta còn chụp
phim phổi thẳng, nghiêng để
xác định tình trạng nhu mô phổi, tình trạng màng phổi và bóng tim.
2. Nội soi và sinh thiết
Soi thực quản bằng ống soi mềm cho
phép quan sát trực tiếp thương tổn và xác
định được đó là loại u sùi, loét hay phối hợp, cách cung răng bao nhiêu, từ đó ta xác định được vị trí khối u.
Những thương tổn ở giai đoạn sớm, hình ảnh thấy được là niêm mạc mất nếp,
phẳng ra.
Giai đoạn sau, niêm mạc thực quản
vùng có thương tổn ung thư sùi lên những nụ lấn vào lòng thực quản. Trên thương tổn sùi có những đám hoại
tử loét, nên thường thấy 2 thương tổn sùi và loét đi kèm nhau, khi chạm vào
thương tổn rất dễ chảy máu. Khi thương tổn đã quá lớn thì lòng thực quản hẹp hẳn lại và ngay trên chỗ
hẹp có ứ đọng thức ăn.
Hình 7: Hình
ảnh nội soi ung thư thực quản
3. Siêu âm nội soi
Phương pháp này rất hữu hiệu trong
việc đánh giá độ xâm lấn của ung thư ra ngoài thực quản và phát hiện các
hạch di căn. Kỹ thuật này
giúp các phẫu thuật viên không phải mở ngực vô ích khi khối u đã tiến triển
xa.
Siêu âm qua nội soi đánh giá mức độ
xâm lấn tại chỗ chính xác hơn CT scan. Hiện nay, ở các nước phát triển và các
trung tâm lớn, siêu âm qua
nội soi được xem là phương tiện chẩn
đoán hình ảnh dùng để phân giai đoạn T của ung thư thực quản cũng như thâm
nhiễm hạch vùng chính xác
nhất.
Hình 8: Siêu
âm nội soi ung thư thực quản, phân độ T3N1
4. Các xét nghiệm cao cấp khác
Hiện nay, tùy theo điều kiện ở một
số nơi người ta sử dụng một
số xét nghiệm cao cấp như CT scan ngực, CT scan bụng hay thậm chí PET-scan
để lượng giá mức độ lan
rộng của khối ung thư, hạch lympho và các nốt di căn ở gan, cung mạch vành vị và để xem bệnh
nhân còn khả năng phẫu thuật điều trị triệt để không.
V.
CHẨN ĐOÁN
1. Chẩn đoán xác định
Trong những năm gần đây, mặc dù có
nhiều tiến bộ về mặt kỹ thuật thăm dò nhưng tỷ lệ ung thư thực quản được phát
hiện sớm không nhiều (10%) vì khó thấy thương tổn sớm của ung thư thực
quản trên phim chụp thực quản.
Chẩn đoán ung thư ở giai đoạn muộn
thường dễ dàng vì bệnh nhân đến viện với cảm giác nuốt vướng hay đã có nghẹn, có
khi bị nghẹn đã nhiều
tháng. Có trường hợp vào
viện đã hoàn toàn nghẹn không thể ăn uống được, ngay cả với thức ăn lỏng cũng
không nuốt được. Thường xuyên ứ đọng nước bọt, đờm dãi, hơi thở hôi...Tình trạng toàn thân xấu,
gầy sút nhiều, có khi chỉ còn da bọc xương.
Tùy theo giai đoạn có thể kết hợp
với X quang, nội soi thực quản, sinh thiết, siêu âm nội soi để chẩn đoán.
2. Chẩn đoán phân biệt
Trong giai đoạn muộn của ung thư
thực quản, chẩn đoán dễ, nhưng khi đến sớm cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh sau:
-
Co thắt tâm vị là bệnh cũng thường gặp, nhưng tiến
triển bệnh khá dài và không thường xuyên khó nuốt như trong ung thư thực quản.
-
Hẹp thực quản do viêm: Nguyên nhân là do hiện tượng trào ngược dạ
dày- thực quản. Có tiền sử trào ngược trong nhiều năm,
triệu chứng nghẹn tăng từ
từ và thường có kèm theo đau, tình trạng toàn thân ít thay đổi.
-
Túi thừa thực quản: Phát triển chậm, không có gầy sút
cân, trên X quang có chuẩn bị thấy thành thực quản lồi.
-
Thương tổn thực quản do chấn thương: Bệnh nhân nuốt khó, nuốt đau bởi
những vết sướt, vết loét do
dị vật gây nên. Chẩn đoán
được nhờ chụp X quang hoặc soi thực quản.
VI.
PHÂN CHIA GIAI ĐOẠN
Vấn đề đặt ra đầu tiên đối với một bệnh nhân được
chẩn đoán là ung thư thực quản đó là bệnh nhân có thể điều trị phẫu thuật triệt để, điều trị phẫu thuật tạm thời hay chỉ điều
trị triệu chứng không phẫu thuật. Đây là một vấn đề thực sự khó khăn bởi vì đánh giá giai đoạn của ung thư thực quản trước phẫu thuật ít
chính xác. Sau phẫu thuật ta có thể phân chia giai đoạn theo TNM được AJCC và UICC đưa ra năm
1988.
Tx
To Tis T1 T2 T3 T4 |
U nguyên phát không đánh giá được
Không thấy u nguyên phát U tại chỗ U tới lớp dưới niêm mạc U xâm lấn lớp cơ niêm U lan ra lớp mô quanh thực quản U lan ra cơ quan kề bên |
Hạch bạch huyết
|
|
Nx
No N1 |
Hạch vùng không đánh giá được
Hạch vùng không bị xâm lấn Có hạch vùng |
Di căn xa
|
|
M1 |
Không đánh giá di căn xa được
Không có di căn xa Có di căn xa |
Giai đoạn
|
Giải phẫu bệnh
|
So
S1 SIIA SIIB SIII SIV |
Tis, No, Mo
T1, No, Mo T2 hay T3, No, Mo T1 hay T2, N1, Mo T3, N1, Mo hay T4, mọi N, Mo Mọi T, mọi N, M1 |
Hình 9: Các giai đoạn ung thư thực quản
V. ĐIỀU TRỊ
Có 3 phương pháp điều trị cơ bản đối
với ung thư thực quản đó là phẫu thuật, xạ trị liệu và điều trị hóa chất. Từng phương pháp riêng thì không đảm
bảo đưa lại kết quả khả
quan. Tốt nhất là kết hợp 3
phương pháp này với nhau. Hiện nay có rất nhiều nhóm hóa trị liệu, mỗi nhóm
theo một công thức điều trị định sẵn.
1. Phẫu thuật
a.
Phẫu thuật triệt để
Phẫu thuật triệt để được thực hiện
với cắt thực quản mang theo khối u và tái lập lưu thông tiêu hóa. Phẫu thuật có
thể qua đường mổ bụng-ngực, bụng đơn thuần, bụng-ngực-cổ hay quan đường nội soi
bụng-ngực. Lưu thông tiêu hóa được tái lập bằng vạt dạ dày cuộn ống, quai ruột
non hay đại tràng.
Tóm lại, hiện nay đối với ung thư
thực quản có 5 loại phẫu thuật và mỗi loại có đặc điểm riêng:
-
Phẫu thuật Sweet (mở ngực-bụng). Đây là đường mổ tốt
cho thương tổn 1/3 dưới thực quản. Nhược điểm là không bóc tách và nạo hạch lên
cao được.
-
Phẫu thuật Lewis-Santy (mở ngực phải-bụng) áp dụng chủ yếu cho u
ở 1/3 giữa thực quản. Ưu điểm
là đánh giá được tình trạng bụng và hạch quanh thực quản ngực. Nếu có phương
tiện nối bằng máy sẽ giúp đơn giản hóa phẫu thuật.
-
Cắt thực quản toàn bộ (mở
thực quản cổ-bụng-ngực). Đây
là phẫu thuật ưa chuộng khi tổn
thương 1/3 giữa.
-
Cắt thực quản không mở ngực, chỉ mở bụng, cổ, tách thực quản
(phương pháp Orringer). Nhược điểm là không lấy rộng mô quanh thực quản, chỉ áp dụng cho những
trường hợp u nhỏ, mới khu trú ở 1/3 trên và dưới. Ưu điểm là ít đau sau mổ.
-
Cắt thực quản qua nội soi lồng ngực:
Hiện nay được áp
dụng ngày càng nhiều.
b.
Phẫu thuật tạm thời
Những bệnh nhân đến muộn khi thương tổn quá lớn hoặc đã có di căn
hoặc tình trạng toàn thân xấu không cho phép tiến hành phẫu thuật điều trị
triệt để, như những bệnh
nhân lớn tuổi, nuốt nghẹn độ IV trở
lên, khối u đã xâm lấn sang khí quản, động mạch chủ, tim..., phẫu thuật nhằm
mục đích để cho bệnh nhân có thể nuốt được.
-
Đặt ống nong trong lòng thực quản: Ống này cho phép nuôi dưỡng bệnh
nhân bằng các chất lỏng và các thức ăn đặc đã được nghiền nhỏ.
Hình 10: Đặt
ống nong
-
Phẫu thuật bắc cầu (Pontage): Trong phẫu thuật này, thương tổn
được giữ nguyên. Dùng một đoạn ống tiêu hóa (một quai ruột non, một đoạn) cắt
hai đầu, giữ nguyên mạc treo, bắt cầu từ thực quản cổ tới dạ dày. Đoạn ghép này
nằm trước hoặc sau xương ức. Phẫu thuật không cần mở lồng ngực.
-
Nhiều tác giả chủ trương mở thông dạ dày để
nuôi dưỡng bệnh nhân. Dạ dày được mở thông bằng phương pháp Fontan hoặc Witzel.
Tuy nhiên, mở thông dạ dày không được bệnh nhân ưa
thích vì không được ăn bằng miệng và
một số trường hợp bệnh nhân bị nhiễm khuẩn lan vào ổ bụng làm tử vong nhanh.
2. Xạ trị
Xạ trị đơn thuần hiện nay ít được sử
dụng để điều trị ung thư
thực quản vì hiệu quả thấp hơn hẳn
hóa trị liệu. Tuy nhiên, xạ trị được sử dụng phối hợp với phẫu thuật và hóa trị
cho thấy hiệu quả trong cải thiện triệu chứng cũng như kiểm soát khối u tại
chỗ.
Tuy nhiên, xạ trị phối hợp chưa cho
thấy hiệu quả trên kéo dài thời gian sống thêm.
3. Hóa trị
Điều trị hóa chất có thể được sử
dụng trước hay sau phẫu thuật. Hóa trị liệu trước phẫu thuật không làm tăng khả năng phẫu thuật triệt để cũng nhu tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật. Tuy
nhiên, hóa trị liệu cho
thấy có thể kéo dài thời
gian sống thêm sau 5 năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét