HẸP MÔN VỊ
I.
ĐẠI CƯƠNG
Hẹp môn vị nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến tình trạng rối loạn nước và điện giải, mất nhiều natri, kali và clo trong máu gây nên tăng dự trữ kiềm gọi là tình trạng nhiễm kiềm chuyển hóa.
Điều trị hẹp môn vị chủ yếu là điều trị ngoại khoa, đây là cấp cứu trì hoãn, trước khi mỗ phải nâng cao thể trạng, bồi phụ nước và điện giải cho bệnh nhân.
Hẹp môn vị là
một biến chứng của nhiều bệnh, nhưng hay gặp hơn cả là do loét và ung thư.
Về lâm sàng,
hẹp môn vị ở giai đoạn muộn thường có những triệu chứng khá rõ ràng, dễ
dàng cho chẩn đoán. Ngày nay, nhờ X quang và nội soi đã có thể
phát hiện những hẹp môn vị sớm, chưa có biểu hiện lâm sàng.
Hình 1: Hẹp môn vị
II.
NGUYÊN NHÂN
1. Loét dạ dày-tá tràng
Loét dạ dày-tá
tràng là nguyên nhân hay gặp nhất.
Tất cả mọi vị trí của ổ loét ở dạ dày hay tá tràng, ở gần hay xa môn vị, đều có
thể gây nên hẹp môn vị tạm thời hay vĩnh viễn.
Cơ chế gây hẹp
·
Ổ loét ở môn vị, gần môn vị có thể gây nên hẹp tại chỗ.
·
Co thắt: Thường phối hợp và làm hẹp nhiều hơn.
·
Viêm nhiễm: Phù nề vùng hang vị.
Co thắt
và viêm nhiễm chỉ là tạm thời và có thể khỏi hẳn sau một thời gian ngắn điều
trị nội khoa.
2.
Ung thư hang vị .
Hình
2: Khối u sùi gây hẹp môn vị
3.
Nguyên nhân khác.
·
Ở dạ
dày:
Polip ở môn vị hay gần môn vị tụt xuống
Sa tụt niêm mạc dạ dày qua lỗ môn vị.
Hẹp phì đại môn vị ở ngời lớn.
Hạc trong bệnh Limpho hạt
Loét do lao, do giang mai.
Sẹo bỏng
Polip ở môn vị hay gần môn vị tụt xuống
Sa tụt niêm mạc dạ dày qua lỗ môn vị.
Hẹp phì đại môn vị ở ngời lớn.
Hạc trong bệnh Limpho hạt
Loét do lao, do giang mai.
Sẹo bỏng
·
b. Bệnh
ngoài dạ dày.
U đầu tụy. ung thư đầu tụy…
U đầu tụy. ung thư đầu tụy…
III.
LÂM SÀNG
Cách tiến
triển: Bệnh tiến triển từ từ, chậm chạp. Lúc mới bắt đầu xuất
hiện từng đợt, vì có hiện tượng co thắt và viêm nhiễm phối hợp. Có
khi viêm, phù nề chiếm ưu thế với đặc điểm là xuất hiện từng đợt rất đột ngột,
nhưng cũng giảm hoặc mất đi nhanh chóng dưới tác dụng của điều trị nội khoa. Về
sau hẹp trở thành thực thể, xuất hiện thường xuyên, mỗi ngày một nặng thêm.
Tiền sử:
Thường bệnh nhân đã có thời gian đau trước đó một vài năm hoặc lâu hơn. Đau
theo mùa, nhịp theo bữa ăn, mỗi cơn đau kéo dài một vài tuần.
Ung thư
Là những ung
thư vùng hang-môn vị, thường là ung thư nguyên phát. Nguyên nhân này đứng hàng
thứ hai sau loét. Hẹp thường diễn biến nhanh chóng nhưng cũng có thể diễn biến
từ từ, chậm chạp.
Lâm sàng
Thường là một
vài tháng nay bệnh nhân thấy ăn uống không ngon, có cảm giác nằng
nặng, chương chướng ở vùng trên rốn. Đau nhè nhẹ, người mệt mỏi, sút
cân...Những triệu chứng này không có gì đặc hiệu nên rất dễ bỏ qua. Hay bệnh
nhân đến viện là vì một khối u ở vùng trên rốn, khối u còn hay đã mất tính di
động.
X quang và nội
soi
X quang giúp
ích nhiều cho chẩn đoán. Có nhiều hình ảnh khác nhau:
Ống môn vị chít
hẹp lại thành một đường nhỏ, khúc khuỷu, bờ không đều.
Vùng hang vị có
hình khuyết rõ rệt.
Nội soi: Nội soi dạ dày - tá tràng bằng
ống soi mềm thấy thức ăn còn đọng lại ở dạ dày, không thể đưa được
ống xuống tá tràng, sinh thiết xác định chính xác nguyên nhân.
Các nguyên nhân
khác
Tại dạ dày
Hạch trong bệnh
lympho hạt.
U lành tính.
U lao.
Bỏng: Do nhầm
lẫn hay cố tình, bệnh nhân uống phải các chất toan hay kiềm có tính chất ăn mòn
mạnh.
Ngoài dạ dày
Sỏi túi
mật.
Tụy
Viêm tụy mạn
tính thể phì đại.
Ung thư
đầu tụy.
Hội chứng hẹp
Giai đoạn bắt
đầu
Lâm sàng
Đau: Thường là
đau sau bữa ăn; tính chất đau không có gì đặc biệt; không đau nhiều lắm.
Nôn: Khi có khi
không; thường có cảm giác đầy, hay buồn nôn.
Hút dịch vị
Hút vào buổi
sáng, trước giờ ăn sáng thường lệ hàng ngày để tránh những phản xạ
tiết dịch. Bình thường hút được chứng 40-60 ml. Ở đây thường là trên 100ml. Trong đó có thể lẫn những
cặn thức ăn còn sót lại. Những mẩu thức ăn này có khi nhìn
thấy rõ ràng, nhưng thường thì phải chú ý thật cẩn thận mới khẳng
định được. Dịch vị nhiều chứng tỏ có hiện tượng ứ đọng, nhưng có thể
một phần là do đa tiết.
X quang
Có ứ đọng nhẹ,
cũng có khi thấy môn vị vẫn mở thuốc xuống tá tràng bình thường
do những co bóp cố gắng của dạ dày. Hình ảnh cơ bản và sớm nhất trong giai đoạn này là
tăng nhu động, dạ dày co bóp nhiều hơn, mạnh hơn. Hình ảnh này phải nhìn
trên màn ảnh mới thấy, chụp không có giá trị. Hiện tượng tăng sóng nhu động
này xuất hiện từng đợt, en kẽ, có lúc dạ dày
nghỉ ngơi.
Nội soi
Dạ dày ứ dịch
ít và hình ảnh hẹp môn vị.
Giai đoạn sau
Lâm sàng
·
Đau: Đau muộn, 2-3 giờ sau khi ăn, có khi
muộn hơn nữa. Đau từng cơn, các cơn đau liên tiếp nhau.
Vì đau nhiều nên có khi bệnh nhân không dám ăn mặc dù rất đói.
·
Nôn: Là triệu chứng bao giờ cũng có và có
tính chất đặc hiệu của nó. Nôn ra nước ứ đọng của dạ
dày, trong có thức ăn của bữa ăn mới lẫn với thức
của bữa ăn cũ. Các tính chất của nôn trong hẹp môn vị:
ü Nôn muộn sau ăn.
ü Nôn ra nước xanh đen, không bao giờ có
dịch mật.
ü Nôn được thì hết đau, cho
nên có khi vì đau quá bệnh nhân phải móc họng cho nôn.
Toàn thân:
Xanh, gầy, da khô, mất nước, uể oải; tiểu ít và táo bón.
Khám thực thể:
Óc ách lúc đói:
Buổi sáng, khi bệnh nhân chưa ăn uống, nếu lắc bụng sẽ
nghe rõ óch
ách. Triệu chứng này rất có giá trị và gặp thường xuyên.
Sóng nhu động:
Xuất hiện tự nhiên hay sau khi kích thích bằng cách búng nhẹ lên thành bụng.
Dấu hiệu
Bouveret: Nếu đặt tay lên vùng trên rốn, thấy căng lên từng lúc.
Bụng lõm lòng
thuyền: Bụng trên rốn thì trướng, bụng dưới rốn thì lại lép kẹp tạo nên dấu
hiệu bụng lõm lòng thuyền.
Hút dịch vị
Lấy được nhiều
nước ứ đọng.
X quang dạ dày
có chuẩn bị
Hình ảnh tuyết rơi. (soi huỳnh quang ở tư thế
đứng cho bệnh nhân uống Barit rơi lả tả trong dịch ứ đọng)
Dạ dày giãn to.
Sóng nhu động:
Xen kẽ với các đợt co bóp mạnh, dạ dày ì ra không co bóp.
Ứ đọng ở dạ
dày: Sau 6 giờ, nếu chiếu hoặc chụp lại sẽ thấy thuốc còn lại ở dạ dày.
Nội soi
Xác định nguyên
nhân gây hẹp môn vị.
Giai đoạn cuối
Lâm sàng
Đau liên tục
nhưng nhẹ hơn giai đoạn trên.
Nôn: Ít nôn
hơn, nhưng mỗi lần nôn thì ra rất nhiều nước ứ đọng và thức ăn
của những bữa ăn trước, có khi 2-3 ngày trước. Bệnh nhân
thường phải móc họng cho nôn.
Toàn thân: Tình
trạng toàn thân suy sụp rõ rệt. Bệnh cảnh của một bệnh nhân mất
nước: Toàn thân gầy còm, mặt hốc hác, mắt lõm sâu, da khô đét, nhăn nheo. Bệnh
nhân ở trong tình trạng nhiễm độc kinh niên, có khi lơ mơ vì ure máu cao hay co
giật vì calci máu hạ thấp.
Khám thực thể:
Dạ dày dãn rất to, xuống quá mào chậu, có khi chiếm gần hết ổ bụng, trướng
không chỉ riêng ở thượng vị mà toàn bụng. Lắc nghe óc ách.
X quang
Các hình ảnh
tuyết rơi, dạ dày hình chậu lại càng rõ rệt. Dạ dày không còn sóng nhu động,
hay nếu có thì rất yếu ớt và vô hiệu. Sau 12-24 giờ hay hơn nữa,
baryt vẫn còn đọng lại ở dạ dày khá nhiều, có khi vẫn còn nguyên.
Sau khi chụp X quang,
nên rửa dạ dày để lấy hết baryt ra để phòng thủng.
Nội soi
Xác định nguyên
nhân và mức độ hẹp môn vị.
IV.
CHẨN ĐOÁN
1. Chẩn đoán xác định
Các triệu chứng
khá rõ và đặc hiệu, nên chẩn đoán thường dễ dàng, ít nhầm lẫn, dựa
vào:
Triệu chứng cơ
năng: Đau, nôn, phải móc họng cho nôn.
Triệu chứng
thực thể: Lắc óc ách khi đói; dấu hiệu Bouveret.
Triệu chứng X
quang: Hình ảnh tuyết rơi, dạ dày hình chậu, sau 6 giờ dạ dày còn
baryt.
Nội soi:
Xác định nguyên nhân hẹp môn vị.
Trong những
trường hợp hẹp nhẹ, chẩn đoán thường dựa vào X quang và nội soi.
2. Chẩn đoán phân biệt
Bệnh giãn to
thực quản.
Hẹp giữa dạ
dày.
Hẹp tá tràng.
Liệt dạ dày do
nguyên nhân thần kinh.
3. Chẩn đoán nguyên nhân
Phân biệt hẹp
môn vị do loét và hẹp môn vị do ung thư dựa vào:
Tiền sử.
Triệu chứng lâm
sàng.
Hình ảnh nội
soi hay X quang.
Nội soi sinh
thiết.
V.
NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ
Trước hết phải phân
biệt là hẹp cơ năng hay thực thể. Hẹp môn vị
cơ năng không có chỉ định điều trị ngoại khoa. Chỉ cần một thời gian điều trị
nội bằng các thuốc chống co thắt, bệnh sẽ khỏi hẳn. Ngược lại, một
hẹp môn vị thực thể là một chỉ định điều trị ngoại khoa tuyệt đối.
Hẹp môn vị
thực thể dù ở mức độ nặng cũng không cần phẫu thuật ngay, mà sau
khi nhận bệnh nhân, phải kịp thời bồi phụ lại sự
thiếu hụt về nước, điện giải và năng lượng cho bệnh nhân.
1.
Điều trị nội khoa: Chủ yếu là bù dịch - điện giải, nâng
cao thể trạng cho bệnh nhân. Ngoài ra, có thể kèm theo sử dụng
các thuốc kháng tiết hay thuốc điều trị bệnh loét nếu như hẹp do
loét và ở giai đoạn sớm.
2.
Điều trị phẫu thuật: Có hai phương pháp chính là nối vị
tràng và cắt dạ dày.
-
Đối với hẹp do ung thư: Phải cắt bỏ dạ dày. Trừ những
trường hợp đặc biệt: hoặc toàn thân quá yếu, hoặc tổn thương lan
rộng hay có di căn, mới làm phẫu thuật nối vị tràng tạm thời.
-
Đối với hẹp do loét: Tốt nhất cũng là phẫu thuật cắt đoạn
dạ dày. Nếu bệnh nhân yếu, tình trạng chung không cho
phép, ổ loét ở vị trí cắt bỏ, thì nên dùng phẫu thuật nối vị tràng đơn giản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét